Những đứa con của nửa đêm
Phan_11
Như ông tôi vào buổi đầu, giữa một hành lang đầy mạng nhện trong ngôi nhà một người mù, rồi một lần nữa vào hồi kết; như Mary Pereira sau khi mất đi Joseph của mình, và như tôi, mẹ tôi có biệt tài nhìn thấy ma.
... Nhưng giờ, bởi vẫn còn nhiều câu hỏi và mơ hồ nữa, tôi buộc phải nói lên vài điều nghi ngờ. Nghi ngờ cũng là một con quái vật với quá nhiều đầu; vậy thì, vì sao tôi không thể ngăn mình thả nó xông vào mẹ ruột của tôi?... Từ nào, tôi tự hỏi, sẽ miêu tả khách quan cái bụng của lão thầy bói? Và ký ức - cái ký ức mới mẻ, biết tuốt của tôi, chứa đựng hầu hết cuộc đời của cha mẹ ông bà và tất cả mọi người - đáp lời: mềm; nhão như bánh bột ngô. Một lần nữa, miễn cưỡng, tôi hỏi: tình trạng đôi môi lão ta thế nào? Và câu trả lời hiển nhiên: đầy; dày thịt; thi sĩ. Và lần thứ ba tôi lục vấn ký ức của mình: thế còn mái tóc? Đáp án: thưa; đen; xuôi; chờm qua tai. Và giờ nỗi nghi ngờ vô căn cứ của tôi đặt câu hỏi tối hậu... phải chăng Amina, trong trắng nhường kia, kỳ thực đã... bởi sự yếu lòng trước những người đàn ông giống Nadir Khan, có thể nào bà lại... trong tâm trạng kỳ dị ấy, và xúc động trước bệnh tình của lão thầy bói, lẽ nào bà không... “Không!” Padma quát lên, thịnh nộ. “Sao anh dám ám chỉ? Về người phụ nữ tốt bụng ấy - mẹ đẻ ra anh? Rằng bà ấy sẽ? Anh chẳng biết cái gì mà cũng dám nói thế?” Và, tất nhiên, như mọi khi, cô đúng. Nếu cô mà biết, cô sẽ nói rằng chẳng qua tôi chỉ muốn báo thù, vì điều tôi đích xác đã thấy Amina làm, nhiều năm về sau, qua ô cửa sổ bụi bặm của Pioneer Café; và có lẽ cái ý niệm phi lý của tôi đã sinh ra từ đó, nảy nở một cách phi logic ngược thời gian, rồi chín muồi khi tìm đến cuộc phiêu lưu sớm hơn và, phải, hầu như chắc chắn là trong sạch này. Phải, hẳn là như thế. Nhưng con quái vật không chịu nằm xuống... “À,” nó bảo, “thế còn chuyện bà ấy nổi cơn tam bành - cái hôm Ahmed thông báo họ sẽ chuyển xuống Bombay?” Giờ nó nhại lại bà: “Anh - lúc nào cũng anh quyết. Còn tôi thì sao? Nhỡ tôi không muốn thì sao... Tôi chỉ vừa thu xếp cái nhà này tinh tươm xong và vừa mới...!” Nào, Padma: có phải đấy là tâm huyết của người nội trợ - hay là sự ngụy trang?
Phải - ngờ vực vẫn lẩn quất đâu đây. Con quái vật chất vấn, “Tại sao bà ấy không, bằng cách này hay cách khác, kể cho chồng về chuyến đi của mình?” Câu trả lời của bị cáo (Padma của chúng ta lên tiếng thay cho mẹ tôi vắng mặt): “Nhưng thử nghĩ xem ông ấy sẽ tức giận thế nào, lạy Chúa! Ngay cả khi không có vụ hỏa tặc khiến ông ấy đau đầu! Một đám đàn ông lạ; bà ấy thì một thân một mình; ông ấy lại chả điên lên! Điên hẳn ấy!”
Những nghi ngờ không đáng... tôi phải gạt bỏ chúng; phải gìn giữ sự nghiêm khắc của mình lại cho sau này, khi, thiếu vắng sự mơ hồ, không còn tấm rèm che phủ, bà trao cho tôi những bằng chứng rõ ràng, xác thực, không thể chối cãi.
... Nhưng, tất nhiên, khi cha tôi trở về nhà đêm ấy, với mùi cống rãnh lấn át thứ hơi hám quen thuộc của thất bại tương lai, trên mắt và má ông nước mắt hòa tro chảy thành dòng; lỗ mũi ông đầy lưu huỳnh còn đầu đầy thứ bụi xám của vải giả da ám khói... vì tất nhiên là chúng đã đốt trụi cái godown.
“Nhưng còn đám gác đêm?” - ngủ, Padma, ngủ. Được cảnh báo trước rằng hãy uống thuốc ngủ để phòng khi... Mấy gã lala dũng cảm, mấy tay chiến binh Pathan ấy, những kẻ, sinh ra ở thành thị, chưa từng thấy đèo Khyber[6], mở những gói giấy nhỏ, trút thứ bột màu gỉ sắt vào ấm chè sôi sục. Họ kéo mấy cái giường bạt ra rõ xa khỏi godown của cha tôi để tránh xà nhà rơi và cơn mưa tàn lửa; rồi nằm dài trên giường bạt họ nhấp nước chè và tiến vào cơn mụ mị ngọt đắng của thuốc ngủ. Đầu tiên họ om sòm cả lên, lớn tiếng tán tụng những ả gái điếm ưa thích của mình bằng tiếng Pushtu; rồi lăn ra cười rinh rích khi những ngón tay mềm mại của thuốc ngủ ngó ngoáy cù vào sườn họ... đến khi tiếng cười nhường chỗ cho giấc mơ và họ lang thang trên những con đèo ở biên giới của thuốc ngủ, cưỡi bầy ngựa của thuốc ngủ, và cuối cùng đạt đến một trạng thái vô giác không mộng mị mà không gì trên đời có thể đánh thức họ dậy chừng nào thuốc ngủ còn chưa chạy hết vòng dược lực.
[6] Lala - người nhút nhát, ngại va chạm. Pathan, một tộc người cư trú tại vùng biên giới giữa Afghanistan và Pakistan. Đèo Khyber nằm ở đây.
Ahmed, Butt và Kemal đến nơi bằng taxi - anh lái xe, phát hoảng vì ba người đàn ông tay siết chặt từng nắm tiền nhàu nát bốc mùi gớm ghiếc hơn cả địa ngục vì những vật chất chẳng thơm tho gì mà chúng tiếp xúc dưới hào nước, lẽ ra đã không chờ họ, có điều nếu vậy họ sẽ từ chối trả tiền anh. “Tha cho tôi, các ngài ơi,” anh nài nỉ, “tôi là một kẻ bé mọn; đừng bắt tôi ở đây...” nhưng lúc đó lưng họ đã đi xa khỏi anh, tiến về ngọn lửa. Anh nhìn họ chạy, tay siết chặt những đồng rupee nhoe nhoét cà chua và cứt chó; miệng há hốc, anh trân trối nhìn cái godown đang cháy, nhìn từng đám mây giữa trời đêm, và như tất cả những người có mặt, anh buộc phải hít thứ không khí ngập ngụa vải giả da và diêm và gạo cháy. Tay bưng mắt, dòm qua kẽ tay, anh tài xế bé nhỏ râu quặp thấy Ngài Kemal, mảnh như một cây bút chì điên loạn, quật đá túi bụi lên thân hình say ngủ của những người gác đêm; và anh suýt nữa đã bỏ cả tiền xe mà chạy trong kinh hoàng vào lúc cha tôi hét lên, “Coi chừng!”... nhưng, vẫn ở lại bất chấp tất cả, anh thấy cái godown vỡ tung ra dưới sức mạnh của những lưỡi lửa liếm vào, anh thấy trào ra khỏi cái godown cả một dòng dung nham không tưởng của gạo đậu lăng đậu xanh áo khoác không thấm nước hộp diêm và rau quả dầm nấu chảy, anh thấy từng bông hoa nóng đỏ của ngọn lửa nở bung lên trời khi các thứ trong nhà kho chảy tràn ra nền đất cứng vàng như một bàn tay cháy đen của sự tuyệt vọng. Phải, tất nhiên cái godown đã bị đốt trụi, nó hóa thành than hồng từ trên trời trút lên đầu họ, nó xộc vào những cái miệng há hốc của đám gác đêm mình mẩy thâm tím song vẫn ngáy... “Chúa cứu vớt chúng ta,” Ngài Butt nói, và Mustapha Kemal, thực tế hơn, trả lời: “Ơn Chúa là ta đã được bảo hiểm cẩn thận.”
“Đúng lúc đó,” về sau Ahmed Sinai bảo vợ, “đúng lúc đó tôi quyết định từ bỏ nghề buôn vải giả da. Bán cả văn phòng, cả thương hiệu, quên sạch những gì tôi biết về kinh doanh reccine. Lúc đó - không trước, không sau, tôi cũng đi đến quyết định, sẽ không nghĩ ngợi gì về vụ Pakistan dớ dẩn của gã Zulfy chồng con bé Emerald nhà mình nữa. Giữa hơi nóng hầm hập của đám cháy ấy,” cha tôi thổ lộ - và giải phóng cơn tam bành của bà vợ - “tôi quyết định dọn đến Bombay, chuyển sang kinh doanh bất động sản. Nhà cửa ở đấy đang rẻ như bèo,” ông bảọ bà trước khi bà kịp lên tiếng phản đối, “Narlikar biết.”
(Nhưng sẽ đến lúc, ông gọi Narlikar là quân phản bội.)
Trong dòng họ nhà tôi, bao giờ chúng tôi cũng đi khi bị xô đẩy - mùa đông băng giá năm 48 là ngoại lệ duy nhất. Lão lái đò Tai đuổi ông tôi khỏi Kashmir; Mercurochrome xua ông khỏi Amritsar; sự tan vỡ của cuộc sống dưới thảm trực tiếp dẫn đến việc mẹ tôi rời bỏ Agra; và những con quái vật nhiều đầu đẩy cha tôi tới Bombay, để tôi có thể ra đời ở đó. Đến cuối tháng một năm ấy, lịch sử rốt cuộc đã, bằng một loạt cú xô đẩy, tự dẫn mình đến thời điểm gần như sẵn sàng để tôi xuất đầu lộ diện. Có những điều bí ẩn không thể giải đáp được chừng nào tôi chưa bước lên sân khấu... chẳng hạn như điều bí ẩn trong lời nhận xét khó hiểu nhất của Shri Ramram: “Sẽ có cái mũi và đầu gối: đầu gối, và cái mũi.” Món tiền bảo hiểm đến; tháng Một kết thúc; và trong quãng thời gian cần thiết để đóng cửa hoạt động kinh doanh ở Delhi và dọn đến thành phố mới, nơi - như Bác sĩ phụ khoa Narlikar biết rõ - nhà đất tạm thời đang rẻ như bèo, mẹ tôi chuyên tâm vào cái kế hoạch phân đoạn để học cách yêu chồng của bà. Bà bắt đầu cảm thấy một niềm say mê sâu sắc với hình dấu hỏi của đôi tai ông; với độ sâu đặc biệt của rốn ông, nơi ngón tay bà có thể vào đến hết đốt thứ nhất, mà chưa cần phải ấn; dần dần bà yêu cả cái lồi của đầu gối ông; nhưng, dù cố gắng đến mấy (và vì đang dành cho bà sự ưu đãi do thiếu bằng chứng, tôi sẽ không đưa ra đây một lý do khả dĩ nào), có một bộ phận ở ông bà không bao giờ yêu nổi, dù đó chính là thứ ông sở hữu, hoạt động hoàn toàn bình thường, còn Nadir Khan chắc chắn là thiếu; vào những đêm ông nhấp nhổm trên bụng bà - khi đứa bé trong tử cung bà chỉ nhỏ bằng con ếch - bà không có chút khoái cảm nào.
... “Đừng, đừng nhanh thế, janum, cuộc sống của em, lâu hơn chút nữa đi,” bà nói; và Ahmed, nhằm kéo dài thời gian, cố nghĩ đến đám cháy, đến điều cuối cùng xảy ra vào cái đêm rực lửa ấy, ngay khi quay đầu bỏ đi thì ông nghe thấy một tiếng kêu ghê rợn trên không, và, ngẩng lên, kịp thấy một con kền kền - giữa đêm! - một con kền kền từ Tháp Im lặng bay trên đầu, và vừa đánh rơi bàn tay Parsee[7] đang ăn dở, bàn tay phải, cái bàn tay - lúc này! - tát thẳng vào mặt ông khi rơi xuống; trong khi Amina, nằm dưới ông ở trên giường, tự trách mình: Sao mày không thích được, đồ đàn bà ngu xuẩn, từ nay mày phải cố vào.
[7] Nguyên văn: Parsee, tín đồ Bái hỏa giáo, đặc biệt là hậu duệ của những người từ Ba Tư chạy sang Ấn Độ trong khoảng thế kỷ 7-8 Công nguyên.
Ngày mồng 4 tháng Sáu, đôi vợ chồng đổng sàng dị mộng rời Bombay trên chuyến tàu Frontier Mail. (Có tiếng đập cửa, tiếng người cố sống cố chết cầu xin, tiếng nắm đấm kêu gào, “Maharaj! Mở cửa đi, một tích tắc thôi! Trời ơi, từ dòng sữa của lòng nhân từ, hỡi ngài tôn quý, làm ơn cứu vớt!” Và có cả - giấu dưới đống hồi môn trong chiếc thùng tôn xanh - một chiếc ống nhổ cấm kỵ bằng bạc, khảm thanh kim thạch, chế tác tinh xảo.) Cùng ngày, Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện tổ chức họp báo, tại đó ông ta tuyên bố việc Chia cắt Ấn Độ, và treo tờ lịch đếm ngược của mình lên tường: bảy mươi ngày nữa là đến thời điểm chuyển giao quyền lực... sáu mươi chín... sáu mươi tám... tích, tắc.
Chương 7: Methwold
Ngư dân đến đây đầu tiên. Trước tiếng tích tắc của Mountbatten, trước lũ quái vật và những lời tuyên bố công khai; khi hôn nhân dưới lòng đất vẫn là điều không tưởng và ống nhổ còn chưa ai biết đến; sớm hơn Mercurochrome; xưa hơn các nữ đô vật chăng những tấm ga giường khoét lỗ; và trước, trước nữa, xa hơn Dalhousie và Elphinstone, trước khi Công ty Đông Ấn xây Pháo đài, trước William Methwold đầu tiên; vào buổi bình minh của lịch sử, khi Bombay vẫn là một hòn đảo hình quả tạ tay, thắt lại ở giữa thành một dải bờ hẹp lung linh mà từ đó ta có thể thấy cảng biển tự nhiên đẹp và rộng nhất châu Á, khi Mazagaon và Worli, Matunga và Mahirm, Salsette và Colaba vẫn còn là đảo - nói cách khác, trước thời kỳ lấn biển, trước khi tetrapod[1] và cọc chìm biến vùng Bảy Đảo thành một bán đảo, dài như một bàn tay tham lam xòe rộng, vươn về phía Tây ra biển Ả Rập; ở thế giới ban sơ trước thời của những tháp đồng hồ, ngư dân - được gọi là Koli - chèo những chiếc dhow Ả Rập, giương những cánh buồm đỏ trên nền mặt trời sắp lặn. Họ bắt cá chim cùng cua bể, và biến tất cả chúng ta thành dân mê cá. (Hay gần như tất cả. Padma đã quy phục dưới ma thuật huyền ngư của họ; nhưng tại nhà tôi, chúng tôi bị lây tính khác người từ huyết thống Kashmir, với sự lãnh đạm băng giá của bầu trời xứ Kashmir, và tiếp tục là dân ăn thịt.)
[1] Những khối bê tông lớn có bốn chân, được sử dụng để lấp đất lấn biển.
Khi ấy cồn có cả dừa và lúa. Và, trên hết, có sự ngự trị từ ái của nữ thần Mumbadevi, mà tên tuổi - Mumbadevi, Mumbabai, Mumbai - hẳn đã có thể trở thành tên thành phố. Nhưng hồi ấy, người Bồ Đào Nha đặt tên nơi này là Bom Bahia vì cảng biển của nó, chứ không phải vì vị thần của ngư dân bắt cá chim… người Bồ Đào Nha là những kẻ xâm lăng đầu tiên, sử dụng cảng để che chở cho tàu buôn và chiến hạm của mình; nhưng rồi, một ngày năm 1633, một nhân viên ở Công ty Đông Ấn tên là Methwold hình dung ra một viễn cảnh. Viễn cảnh này - giấc mơ về một Bombay thuộc Anh, thành lũy kiên cố, sẽ bảo vệ một dải Tây Ấn trước mọi kẻ xâm nhập - đó là một ý tưởng có sức mạnh ghê gớm đến mức khiến thời gian chuyển động. Lịch sử dâng trào; Methwold chết; năm 1660, Charles II nước Anh đính hôn với Catharine của Gia tộc Braganza Bồ Đào Nha - chính cái bà hoàng Catharine sẽ suốt đời đóng vai đào phụ cho ả Nell bán cam[2]. Nhưng bà có niềm an ủi này - rằng chính món hồi môn của mình đã đem Bombay đặt vào tay người Anh, hẳn là trong một chiếc thùng tôn xanh, và đem viễn cảnh của Methwold một bước nữa đến gần hiện thực. Sau đó không bao lâu, là đến ngày 21 tháng Chín năm 1668, khi Công ty Đông Ấn rốt cuộc đã chạm được tay vào hòn đảo... và rồi họ bắt tay làm, với Pháo đài và dự án lấn biển, và trong chớp mắt một thành phố ra đời, Bombay, mà có một bài ca cũ hát rằng:
Prima in Indis,
Cửa ngõ vào Ấn Độ
Ngôi sao của phương Đông
Mặt ngoảnh về phương Tây
[2] Gwyn Nell, một người bán cam chuyển nghề làm diễn viên, sau này trở thành tình nhân của Charles II.
Bombay của chúng ta, Padma! Hồi ấy nó khác lắm không có hộp đêm hay nhà máy rau quả ngâm hay khách sạn Oberoi-Sheraton hay phim trường; nhưng thành phố phát triển với tốc độ chóng mặt, có một nhà thờ và một bức tượng kỵ mã của vị vua chiến binh Sivaji xứ Mahratta (mà chúng tôi nghĩ là) sống dậy về đêm và phóng sầm sập trên những nẻo đường thành phố - dọc Đại lộ Marine Drive! Trên bãi biển Chowpatty! Qua những ngôi nhà đồ sộ trên Đồi Malabar, quanh Góc phố Kemp, ngả nghiêng dọc bờ biển tới tận Scandal Point! Và phải, sao lại không, chạy mãi chạy mãi, xuống đường Warden nhà tôi, dọc những bể bơi chia khu của Breach Candy, ngược lên Đền Mahalaxmi nguy nga và Câu lạc bộ Willington cũ kỹ... Suốt thời thơ ấu của tôi, mỗi khi Bombay rơi vào thời kỳ đen tối, một kẻ mất ngủ đi đêm nào đó sẽ kể rằng mình đã thấy bức tượng phóng qua; tai họa, ở thành phố thời thơ ấu của tôi, nhảy múa theo điệu nhạc ma quái từ những chiếc móng bằng đá xám của một con ngựa.
Và giờ họ ở đâu, những cư dân đầu tiên ấy ? Trong số họ dừa là khá nhất. Dừa vẫn bị chặt đầu hằng ngày trên bãi biển Chowpatty; trong khi ở bãi Juhu, dưới ánh mắt uể oải của các minh tinh màn bạc ngụ tại Khách sạn Sun ’n’ Sand, những cậu bé vẫn thoăn thoắt trèo dừa và hái xuống thứ quả râu xồm. Dừa có cả một lễ hội của riêng mình, Ngày Dừa, được tổ chức chỉ vài hôm trước ngày sinh đồng thời điểm của tôi. Về phần dừa, quý vị có thể yên tâm. Lúa thì không may mắn thế; những ruộng lúa giờ đây đã vùi dưới bê tông; chung cư mọc lên nơi lúa từng ngâm mình trong bùn và từ đó ta có thể nhìn thấy biển. Thế nhưng, ở thành phố, chúng ta vẫn là dân nghiền gạo. Gạo Patna, Basmati, Kashmiri, ngày ngày vẫn đổ về thành thị; cho nên thứ gạo gốc, nguyên thủy vẫn lưu dấu ấn trên tất cả chúng ta, và không thể nói là đã chết đi vô ích. Về phần Mumbadevi - ngày nay bà không được ưa chuộng lắm, đã bị thay thế bằng thần Ganesh đầu voi trong sự sùng bái của cư dân. Lịch lễ hội cho thấy sự suy vi của bà: Ganesh - “Ganpati Baba” - có lễ hội Ganesh Chaturthi của mình, khi những đám rước hoành tráng được tiền hô hậu ủng, diễu hành đến Chowpatty mang theo tượng thạch cao của vị thần, rồi ném xuống biển. Ngày Ganesh là dịp lễ cầu mưa, nó gọi gió mùa về, nó cũng được tổ chức vài ngày trước khi tôi xuất hiện cuối kỳ tích tắc đếm ngược - nhưng còn ngày của Mumbadevi ở đâu? Nó không có trong lịch. Lời nguyện cầu của dân đánh cá chim, câu khấn vái của người săn cua bể đi về đâu?... Trong số những cư dân đầu tiên, ngư dân Koli có kết cục thê thảm nhất. Ngày nay bị nhồi vào một ngôi làng tí hon ở ngón cái của bán đảo hình bàn tay, họ được công nhận là đãmang đến cái tên cho một quận - Colaba. Nhưng hãy đi đến cuối Đê Colaba - qua những hàng quần áo rẻ tiền và quán ăn Iran và những căn hộ hạng xoàng của giáo viên, nhà báo và thư ký - quý vị sẽ tìm thấy họ, mắc kẹt giữa căn cứ hải quân và biển cả. Và đôi khi những phụ nữ Koli, tay tanh mùi ruột cá và thịt cua, lại ngạo nghễ chen lên hàng người chờ xe buýt ở Colaba, với tấm sari màu gấc (hay tím) xắn lên đầy khiêu khích giữa hai chân, với một ánh nhìn nhói lòng của những lần thất bại và bị tước đoạt xa xưa trong đôi mắt lồi có phần giống cá của họ. Một pháo đài, rồi đến một thành phố, cướp đất của họ; máy đóng cọc đã (rồi tetrapod sẽ) đánh cắp từng mảnh biển của họ. Nhưng những chiếc dhow Ả Rập vẫn đây, vẫn chiều chiều dong buồm trên bóng hoàng hôn... tháng Tám năm 1947, người Anh, kẻ chấm dứt sự thống trị của chài lưới, dừa, lúa và Mumbadevi, chuẩn bị đến lượt mình ra đi; không có sự thống trị nào là vĩnh cửu.
Và ngày 19 tháng Sáu, hai tuần sau khi đến nơi bằng tàu Frontier Mail, cha mẹ tôi bước vào cuộc mặc cả kỳ quái với một người Anh sắp ra đi như vậy. Tên ông ta là William Methwold.
Lối vào Điền trang Methwold (ta đang bước vào vương quốc của tôi, tiến vào trái tim của tuổi thơ tôi; cổ tôi bỗng dưng nghẹn lại) rẽ khỏi đường Warden ở đoạn giữa bến xe buýt và một dãy cửa hàng nhỏ. Hiệu đồ chơi Chimalkers; Thiên Đường của Độc giả[3]; hiệu kim hoàn Chimanbhoy Fatbhoy; và, trên hết, Bombelli hàng Bánh kẹo, với bánh Hầu tước, với Sô Cô La Dài Cả Mét! Những cái tên lừng lẫy; nhưng giờ chưa phải lúc. Đi qua cậu bé thị đồng bằng bìa đang giơ tay chào ở Hiệu giặt là Band Box, con đường đưa ta về nhà. Ngày ấy tòa cao ốc màu hường của đám đàn bà nhà Narlikar (sự mô phỏng xấu xí cột sóng phát thanh ở Srinagar!) thậm chí còn chưa có trong suy nghĩ của bất kỳ ai; con đường đi lên một quả đồi thấp, không cao hơn ngôi nhà hai tầng là mấy; nó lượn vòng ra biển, nhìn xuống Câu lạc bộ Bơi lội Breach Candy, nơi dân da hồng có thể bơi trong cái bể hình Ấn-Độ-thuộc-Anh mà chẳng sợ cọ xát phải một làn da đen; và kia, bề thế tọa lạc xung quanh một vòng xuyến nhỏ, là bốn tòa cung điện của William Methwold, trên đó treo những tấm biển rồi sẽ - nhờ tôi - tái xuất hiện nhiều năm sau, những tấm biển hai chữ; hai thôi, nhưng đã lùa được cặp cha mẹ khờ khạo của tôi vào trò chơi quái dị của Methwold: BÁN NHÀ.
[3] Tên một hiệu sách.
Điền trang của MethwoId: bốn tòa nhà giống hệt nhau có phong cách kiến trúc tương xứng với những chủ nhân đầu tiên (nhà của kẻ chinh phục! Biệt thự La Mã; những ngôi nhà ba tầng của các vị thần, trên một đỉnh Olympus hai tầng, một ngọn Kailash[4] lùn!) - những dinh thự rộng, vững chãi có mái đỏ chữ A và tháp canh bốn góc, những ngọn tháp trắng ngà đội mũ ngói đỏ chóp nhọn (rất hợp để nhốt các nàng công chúa!) - những ngôi nhà có hàng hiên, nối với khu của người hầu bằng cầu thang sắt xoắn ốc khuất ở mặt sau - những ngôi nhà mà chủ nhân của chúng, William Methwold, đặt tên một cách vương giả theo những cung điện châu Âu: Biệt thự Versailles, Biệt thự Buckingham, Biệt thự Escorial và Sans Souci. Hoa giấy bò khắp nơi; cá vàng bơi giữa những bể nước xanh lợt; xương rồng mọc trong thạch viên; những cây xấu hổ bé xíu chen chúc dưới mấy gốc me; có bướm và hoa hồng và cả ghế mây trên thảm cỏ. Và vào cái ngày giữa tháng Sáu ấy, Ngài Methwold bán những cung điện trống không của mình với cái giá thấp đến kỳ cục - nhưng có một số điều kiện. Và bây giờ, không dền dứ thêm nữa, tôi giới thiệu ông ta với quý vị, vẹn nguyên với đường ngôi nằm giữa mái tóc... một vị thần Titan cao mét tám, tay Methwold này, mặt tươi màu hoa hồng và tuổi trẻ vĩnh cửu, ông ta có mái tóc đen dày chuốt dầu thơm, rẽ ngôi ở chính giữa. Rồi ta sẽ nói về cái ngôi giữa này, mà sự thẳng thớm như cây thông nòng súng khiến MethwoId trở nên không cưỡng nổi trước đàn bà, khiến họ không sao kiềm chế được nổi ham muốn vò tung nó lên… Mái tóc của Methwold, rẽ ngôi giữa, liên quan rất mật thiết đến sự ra đời của lôi. Đó là một trong những đường viền mái tóc mà dọc theo nó lịch sử và tình dục sẽ vận động. Như diễn viên xiếc đi dây. (Nhưng bất chấp tất cả, ngay cả tôi, người chưa từng gặp ông ta, chưa từng quan sát hàm răng sáng loáng ung dung hay mái tóc chải chuốt cầu kỳ ấy, cũng không thể đem lòng oán hận ông ta được).
[4] Một đỉnh núi thuộc dãy Himalaya, được coi là nơi ở của thần linh.
Còn mũi ông ta? Trông nó thế nào? Nổi bật? Phải, hẳn rồi, di sản của người bà quý tộc Pháp - từ Bergerac! - mà dòng máu chảy trong huyết quản ông ta biếc màu bích thủy và khiến nét hào hoa phong nhã ấy tối lại với một điều gì đó độc địa hơn, một ánh ngọt ngào chết chóc của ngải đắng.
Điền trang của Methwold được bán với hai điều kiện: rằng mỗi ngôi nhà được mua kèm theo tất cả mọi thứ bên trong, và toàn bộ đồ đạc phải được chủ nhân mới lưu giữ; việc chuyển giao thực sự sẽ không diễn ra cho đến nửa đêm 15 tháng Tám.
“Mọi thứ?” Amina Sinai hỏi. “Em không thể vứt đi cả một cái thìa? Allah, cái chụp đèn kia... Em không thể bỏ đi một cái lược?”
“Thượng vàng hạ cám,” Methwold nói. “Đấy là điều kiện của tôi. Ngẫu hứng, Ngài Sinai... ngài sẽ cho phép tay thực dân sắp cuốn gói chơi trò chơi nhỏ của hắn chứ? Bọn tôi còn gì mấy để làm nữa đâu, dân Anh bọn tôi, ngoài việc chơi trò chơi.”
“Mình nghe này, nghe này, Amina,” sau này Ahmed nói, “Mình muốn sống ở cái phòng khách sạn này suốt đời à? Cái giá ấy rất tuyệt; quá tuyệt là đằng khác. Và ông ta còn làm gì được sau khi đã bàn giao giấy tờ? Lúc đó mình thích vứt cái chụp đèn nào thì vứt. Có chưa đầy hai tháng...”
“Các vị sẽ uống cocktail trong vườn nhé?” Methwold nói, “Sáu giờ chiều hằng ngày. Giờ cocktail. Hai mươi năm nay chưa từng sai trật.”
“Nhưng lạy Chúa, cái màu sơn... tủ đồ thì chật ních quần áo cũ, janum... ta sẽ phải sống với đống vali, chẳng có chỗ để cất lấy một bộ quần áo!”
“Làm ăn quá tệ, Ngài Sinai ạ,” Methwold nhấp một ngụm Scotch giữa xương rồng và hoa hồng, “Chưa thấy thế bao giờ. Mấy trăm năm chính quyền tử tế, thế rồi đột nhiên, cắp đít đi luôn. Ngài phải thừa nhận là chúng tôi không phải cái gì cũng xấu: làm đường sá. Trường học, tàu hỏa, và chế độ nghị viện, toàn những thứ tốn kém. Taj Mahal Mahal cứ đổ nát dần cho đến khi một người Anh chịu để mắt đến nó. Và giờ, đột nhiên, độc lập. Bảy mươi ngày để cuốn gói. Tôi cực lực phản đối việc này, nhưng biết làm gì bây giờ?”
“… Nhìn mấy vết ố trên thảm mà xem, janum; suốt hai tháng ta phải sống như những người Anh ấy à? Mình ngó vào nhà tắm chưa? Không có nước cạnh hố xí. Trước giờ em có tin đâu, nhưng hóa ra đúng thật, lạy Chúa, họ chỉ chùi đít bằng giấy thôi!...”
“Ngài nói xem, Ngài Methwold,” giọng Ahmed Sinai biến đổi, trước mặt một người Anh nó biến thành sự bắt chước kệch cỡm chất giọng Oxford lè nhè, “sao nhất thiết phải trì hoãn? Kể ra, bán luôn là hay nhất. Giải quyết dứt điểm đi.”
“… Rồi tranh vẽ mấy mụ già người Anh ở khắp nơi, baba! Đến chỗ để treo ảnh cha tôi trên tường cũng chẳng còn!...’’
“Dường như, Ngài Sinai,” Ngài Methwold rót thêm rượu vào cốc khi mặt trời lao xuống biển Ả Rập ở phía sau bể bơi Breach Candy, “bên dưới cái ngoại hình Anh quốc cứng nhắc này ẩn chứa một tâm hồn mang nỗi thèm khát ẩn dụ rất Ấn Độ.”
“Và uống rượu nhiều quá, janum... như thế không tốt.”
“Tôi không hiểu lắm - Ngài Methwold, ừm - chính xác ngài muốn nói...”
“... Chà, ngài biết đấy: ở mức độ nào đó, tôi cũng đang chuyển giao quyền lực. Ngứa ngáy muốn làm điều đó cùng lúc với đức ngài Raj. Như tôi nói ấy: trò chơi. Chiều ý tôi chứ, Sinai? Nói cho cùng: cái giá này, chính ngài đã thừa nhận, không hề tệ.”
“Ông ta điên rồi à, janum? Mình nghĩ sao: giao dịch thế có an toàn không, nếu ông ta bị dở hơi ?”
“Nghe này, bà xã,” Ahmed Sinai nói, “ta nói chuyện này thế đủ rồi. Ngài Methwold là người tử tế; con nhà dòng dõi; nguời có phẩm giá; tôi sẽ không để tên ông ấy bị... Và hơn nữa, những người mua khác chẳng ai làm rộn như mình đâu, tôi đảm bảo... Chưa kể, tôi đã nhận lời rồi, việc này chấm dứt ở đây.”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian